THÊM GIẢI PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH CHO TÔM

Cập nhật Tháng Năm 19, 2017
 

Ngày 12/6/2013, tại Sóc Trăng, Tổng cục Thủy sản phối hợp với Sở NN&PTNT Sóc Trăng tổ chức hội nghị bàn giải pháp phòng trị bệnh tôm nước lợ năm 2013.

Những khó khăn

Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản nhận định: Vụ tôm 2013, dịch bệnh vẫn còn xảy ra, cùng với việc người nuôi thiếu vốn đã làm cho tiến độ thả nuôi chậm hơn cùng kỳ năm 2012.

Ông Phạm Anh Tuấn phát biểu tại hội nghị

Theo Tổng cục Thủy sản, đến ngày 5/6, các tỉnh vùng ĐBSCL đã thả nuôi tôm nước lợ trên 542.000 ha, bằng 95,1% so với cùng kỳ. Trong đó tôm sú 530.000 ha, tôm thẻ chân trắng 12.704 ha. Dịch bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp và các nguyên nhân khác làm 4,2% diện tích thả tôm nuôi bị thiệt hại, trong đó tôm sú thiệt hại 3,8% và tôm thẻ chân trắng là 17,1%. Tuy vậy, so với cùng kỳ năm 2012, diện tích thiệt hại đối với tôm sú chỉ bằng 65%, còn tôm thẻ chân trắng tăng lên 124,9%. Bên cạnh đó, dịch bệnh tôm do hội chứng hoại tử gan tụy cấp có chiều hướng giảm nhưng bệnh đốm trắng lại tăng.

Cũng theo đánh giá chung của Tổng cục Thủy sản, vụ nuôi tôm 2013, công tác kiểm soát chất lượng tôm giống vẫn chưa tốt; kết quả nghiên cứu hội chứng gan tụy cấp, cũng như các giải pháp phòng trị bệnh hiệu quả chưa đến được người nuôi. Mặt khác người nuôi tôm thiếu vốn, khó tiếp cận vốn vay tín dụng; bảo hiểm tôm nuôi còn một số vướng mắc trong quy chế giám sát, đánh giá thiệt hại, quy trình bồi thường…

Tuy nhiên, diễn biến thực tế tại các địa phương cho thấy, tôm bệnh chết đang có chiều hướng giảm dần. Ông Nguyễn Văn Khởi, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Sóc Trăng so sánh: Năm 2011, tỷ lệ thiệt hại lên đến 72% diện tích nuôi tôm trên địa bàn tỉnh; đến năm 2012 giảm còn 56% và ở vụ nuôi 2013, tính đến thời điểm hiện nay, tỷ lệ thiệt hại đang ở mức 18%. Việc giảm đáng kể diện tích thiệt hại, tăng diện tích có thu hoạch từ đầu vụ nuôi đến nay đã tạo nên nguồn nguyên liệu tương đối ổn định cho doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu.

Một điều đáng nói nữa là các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ phòng chống dịch bệnh trong nuôi tôm thời gian qua chưa mang lại hiệu quả cao. Việc giảm tỷ lệ thiệt hại chủ yếu do người nuôi chủ động quay lại với những mô hình đã thành công trước đây như: nuôi mật độ thưa, nuôi ghép, không sử dụng hóa chất, thuốc BVTV trong cải tạo ao nuôi… Do vậy, “các quy trình nuôi hiện nay cần phải linh hoạt với điều kiện biến đổi của môi trường để thích ứng cao thì mới thành công”, ông Khởi nói.

 

Giải pháp mới

Ông Tạ Minh Phú, Chủ tịch Hội Thủy sản Bạc Liêu, cho biết: kinh nghiệm nuôi tôm thành công từ sau dịch bệnh hoại tử gan tụy được áp dụng như: không dùng bất kỳ loại hóa chất nào, mà sử dụng hoàn toàn bằng chế phẩm vi sinh; không nuôi liên tiếp nhiều vụ, có thời gian cách ly nhất định; cải tạo kỹ ao đầm, thường xuyên theo dõi mật độ tảo trong ao nuôi để điều chỉnh kịp thời. Vấn đề khó nhất là chủng loại, nhãn hiệu chế phẩm vi sinh trên thị trường quá nhiều khiến người nuôi không biết chọn lựa sản phẩm nào là chất lượng và kinh tế nhất. Do vậy, ngành chức năng cần tăng cường quản lý các chế phẩm này, cũng như chất lượng con giống. Cần sớm triển khai các chính sách hỗ trợ người nuôi về vốn…

Vần đề dịch bệnh ở tôm đang là nỗi lo của nông dân – Ảnh: Bảo Yến

Ông Nguyễn Văn Nhiệm, Chủ tịch Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh (Sóc Trăng) cho rằng, ngoài khó khăn về dịch bệnh còn có khó khăn khác lớn hơn nhiều là tình trạng người nuôi tôm thiếu vốn. Đối với thiệt hại dịch bệnh tôm, ngoài bệnh đốm trắng, gan tụy, tôm còn bị thiệt hại do khí độc trong ao (NH3, H2S…). Do đó, người nuôi tôm cần kiểm tra hàm lượng khí độc, mật độ Vibrio trong ao và cả trên tôm post trước khi thả nuôi. Phải thường xuyên kiểm soát mật độ vi khuẩn Vibrio trong ao nuôi để đảm bảo trong ngưỡng cho phép. Dùng men vi sinh để khống chế hoặc sử dụng kháng sinh trong 40 ngày đầu tiên vẫn cho hiệu quả. Nếu phát hiện tôm bắt đầu thiệt hại, cơ quan chuyên ngành cần kiểm tra, xét nghiệm mẫu để xác định nguyên nhân và có giải pháp nhanh.

TS Nguyễn Văn Hảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II nhấn mạnh, có hai vấn đề cần quan tâm hiện nay, một là kiểm soát tốt Vibrio trong môi trường và trên tôm post bằng cách diệt khuẩn định kỳ sau đó cấy vi sinh trở lại hoặc sử dụng vi sinh trong suốt quy trình mà không dùng hóa chất; thứ hai là cần bổ sung các chất khoáng đa vi lượng vào ao nuôi, không nên sử dụng kháng sinh vì sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu.

Ông Phạm Anh Tuấn khẳng định: Vibrio là tác nhân chính gây bệnh gan tụy và tôm bị bệnh gan tụy từ giai đoạn con giống chứ không chỉ trong quá trình nuôi, một số yếu tố môi trường như độ mặn, pH quá cao hay ôxy hòa tan thấp cũng làm cho bệnh gan tụy thêm trầm trọng. Do đó, cần thực hiện các giải pháp: kiểm soát Vibrio trong quá trình nuôi theo khuyến cáo và chuẩn hóa các tiêu chuẩn môi trường nuôi trong ngưỡng cho phép; thả nuôi mật độ thưa; khuyến khích ương dưỡng tôm nuôi trước khi thả vào ao nuôi; cần chuyển giao thật kỹ quy trình, biện pháp nuôi mới cho người nuôi; cần nghiên cứu thêm về tác nhân gây gan tụy cũng như mùa vụ thả nuôi.

>> Hiện nay, thời tiết ngày càng khắc nghiệt hơn, môi trường ngày càng suy thoái, nên quy trình nuôi cũng cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp.
 
(Theo thuysanvietnam.com.vn)